Việt Nam đã mở cửa, hội nhập quốc tế hơn 25 năm và cùng với quá trình đó, môn thể thao golf cũng đã được du nhập vào Việt Nam từ 20 năm trước. Tuy nhiên, cho đến nay, câu chuyện về môn thể thao golf và kinh tế golf tại Việt Nam vẫn là đề tài được tranh luận, thậm chí đôi khi khá gay gắt cả trên nghị trường và trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Những người ủng hộ golf cho rằng, golf là môn thể thao thịnh hành trên thế giới, Việt Nam đã mở cửa, hội nhập quốc tế, các nhà đầu tư và khách du lịch nước ngoài vào nước ta ngày càng đông nên cần phát triển môn thể thao golf, chí ít nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, du lịch. Golf cũng là môn thể thao có thể mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội không nhỏ thông qua việc đóng góp cho ngân sách, giải quyết công ăn việc làm và thu hút khách du lịch cao cấp.
Ngược lại, không ít ý kiến cho rằng, golf là môn thể thao của người giàu, việc phát triển sân golf làm mất đi đất “bờ xôi ruộng mật”, ảnh hưởng đến an ninh lương thực, đẩy người nông dân vào cảnh mất kế sinh nhai; sân golf sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ, có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt ô nhiễm nguồn nước; hiệu quả kinh tế của golf mang lại không đáng kể so với diện tích đất dành cho nó.
Để làm rõ những vấn đề nói trên, mới đây, một cuộc Tọa đàm về sân golf và kinh tế golf tại Việt Nam đã được Báo Đầu tư tổ chức với sự tham gia của nhiều chuyên gia, đại diện các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, Hiệp hội Golf Việt Nam và đại diện các nhà đầu tư. Một trong những vấn đề được quan tâm thảo luận tại cuộc Tọa đàm là có phải Việt Nam có quá nhiều sân golf và golf đang xâm hại đến đất trồng lúa, ảnh hưởng đến an ninh lương thực?
Theo ông Hoàng Ngọc Phong, Phó viện trưởng Viện chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cả nước hiện có 29 sân golf đã đi vào hoạt động và 61 sân golf nằm trong quy hoạch xây dựng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Kết quả rà soát 90 sân golf này mới đây cho thấy, các sân golf đều gắn với các vùng, địa phương có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, du lịch, dịch vụ, là các vùng đất cát, đất trống đồi trọc, không có khả năng sản xuất nông nghiệp và trồng rừng. Diện tích đất lúa chiếm 2% tổng diện tích đất dành cho các sân golf, trong đó hoàn toàn không có đất lúa hai vụ. Tại cuộc Tọa đàm, một số chuyên gia cho rằng, việc kết tội golf lấy đi quá nhiều đất trồng lúa xuất phát từ sự bùng nổ quy hoạch sân golf cách đây vài năm khi một số địa phương, nhất là Long An, quy hoạch và thậm chí cấp phép cho quá nhiều sân golf được đi vào hoạt động. Điều này đã được báo chí lên tiếng cảnh báo và được các cơ quan chức năng kiểm tra, chấn chỉnh.
Về đóng góp của golf cho phát triển kinh tế - xã hội, theo số liệu của Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2010, các sân golf đã nộp ngân sách 505 tỷ đồng và giải quyết 10.000 việc làm cho người lao động. Ngoài ra, golf cũng đã tạo ra các nguồn thu gián tiếp khác thông qua việc thu hút khách du lịch.
Tuy nhiên, để đánh giá đúng hiệu quả kinh tế - xã hội của việc phát triển sân golf, các chuyên gia kiến nghị cần khảo sát nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này để có thể so sánh hiệu quả đầu tư phát triển sân golf với đầu tư phát triển nông nghiệp trên diện tích đất xây dựng sân golf.
Về vấn đề gây ô nhiễm môi trường, kết quả thanh tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho thấy, các thông số được kiểm tra như chất lượng nước thải, tồn dư của các loại hóa chất trong đất, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón trong đất và nước của sân golf đều phù hợp với tiêu chuẩn môi trường. Trao đổi về vấn đề này, GS. TS. Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư nhận định một cách hài hước rằng: “Nếu môi trường tại các sân golf bị ô nhiễm thì các tỷ phú ở các nước sẽ không dại gì tới đó, vì ắt hẳn họ là những người coi trọng sức khỏe nhất”.
Về vai trò của sân golf đối với phát triển du lịch quốc tế, một số công ty du lịch lữ hành cho biết, sắp tới sẽ phát triển mạnh việc đưa golf thủ nước ngoài vào Việt Nam bởi nhu cầu rất lớn, không khác gì loại hình du lịch hội thảo (MICE) đang rất sôi động. Ở Thái Lan, mỗi năm thu hút trên 400.000 du khách kết hợp chơi golf. Bên cạnh đó, vấn đề bất động sản trong sân golf cũng cần phải được nhìn nhận theo hướng có lợi cho ngân sách nhà nước và cần phải phân định rõ, đâu là bất động sản phát triển trên diện tích được cấp phép cho sân golf và đâu là bất động sản nằm trong dự án tổng thể có sân golf.
Nhìn ra các quốc gia trong khu vực, golf từ lâu đã được coi là một môn thể thao chuyên nghiệp, được quan tâm, đầu tư có định hướng, có trọng điểm, sân golf và các dịch vụ đi kèm rất phát triển. Bảng dưới đây là một vài con số so sánh:
Quốc gia
|
Diện tích (km2)
|
Dân số (Người)
|
Số sân golf
|
Số golf thủ (Người)
|
Việt Nam
|
331.698
|
90.549.390
|
29
|
10.000
|
Indonesia
|
1.919.440
|
237.512.352
|
151
|
100.000
|
Philippines
|
299.764
|
94.013.200
|
121
|
80.000
|
Thái Lan
|
514.000
|
66.404.688
|
260
|
500.000
|
Singapore
|
692,7
|
5.977.800
|
25
|
55.000
|
Malaysia
|
329.758
|
26.207.102
|
220
|
300.000
|
Như vậy, có thể nói, cần phải định vị lại môn thể thao golf và kinh tế golf trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt, các đơn vị liên quan cần có trách nhiệm hơn trong việc nâng cao nhận thức xã hội về môn thể thao, lĩnh vực kinh tế này, qua đó khai thác hiệu quả hơn các mặt tích cực của golf tại Việt Nam.
Nguồn: Sưu tầm